Eragon III - Brisingr

C1. Cánh cửa tử thần

Eragon nhìn chằm chằm vào ngọn tháp đá tối tăm nơi mà những kẻ đã giết chú của nó, Garrow, đang ẩn nấp.

Nó đang nằm sấp sau mép một ngọn đồi cát lấm tấm những ngọn cỏ lơ thơ, những bụi gai, và những cụm xương rồng nhỏ trông như nụ hoa hồng. Những cọng khô giòn của đám lá năm ngoái đâm vào bàn tay nó trong lúc nó nhích dần lên để nhìn rõ hơn toàn cảnh Helgrind, lúc này hiện ra lờ mờ trên vùng đất chung quanh trông như một con dao găm đen đâm toạc ra từ trong lòng đất.

Mặt trời chiều vạch lên ngọn đồi thấp những cái bóng dài và hẹp, và - xa xa về phía tây – chiếu sáng Leona Lake khiến chân trời trở thành một dải vàng óng lấp lánh.

Bên trái nó, Eragon nghe tiếng thở đều đặn của ông anh họ, Roran, đang nằm dài bên cạnh nó.

Dòng chảy vốn dĩ không thể nghe thấy của không khí lại có vẻ phi thường ồn ào đối với Eragon nhờ vào khả năng nghe đã được nâng cao, một trong nhiều thay đổi gây ra do một sự kiện mà nó đã trải qua trong lễ Agaetí Blödhren, buổi lễ tuyên thệ của người elf.

Nó không để ý lắm đến dòng âm thanh đó vì đang bận quan sát một đoàn người đang tiến về căn cứ Helgrind, rõ ràng là đã bước ra từ thành phố Dras-Leona, cách đó vài dặm. Một nhóm hai mươi bốn người nam và nữ, mặc áo choàng da dày, chiếm lĩnh vị trí đầu của đoàn người. Nhóm này di chuyển với những dáng đi kỳ lạ và biến đổi – họ đi khập khiễng và kéo lê chân, và gù lưng, và quằn quại; họ vung vẩy những cây gậy chống hoặc dùng tay để đẩy thân mình lên trước trên những cái chân ngắn ngủn kỳ lạ - những sự vặn vẹo này là cần thiết bởi vì, như Eragon nhận thấy, mỗi một người trong số 24 người đó thiếu một tay hoặc một chân hoặc cả hai.

Chỉ huy của họ ngồi thẳng trên một cái kiệu khiêng bởi sáu nô lệ, một tư thế mà Eragon nghĩ làm được nó cũng thiệt khá, trong trường hợp người đàn ông hoặc đàn bà đó – nó không thể phân biệt – chỉ có đúng một cái thân trên và cái đầu, trên trán đội thăng bằng một cái mũ bằng da cao 3 foot.

“Những thầy tư tế của Helgrind”, nó thì thầm với Roran.

“Họ có xài được phép thuật không?”

“Có thể. Em không dám dùng tư tưởng để dò xét Helgrind cho đến khi nào họ rời đi, vì nếu có ai đó trong bọn họ là thuật sĩ, họ sẽ cảm thấy sự thăm dò của em, dù là rất nhẹ, và sự có mặt của chúng ta sẽ bị phát hiện.”

Phía sau những thầy tư tế, một hàng đôi những thanh niên trong quần áo vàng lê bước mệt mỏi. Mỗi người trong số họ mang một cái khung kim loại chia làm mười hai thanh ngang treo lủng lẳng những cái chuông to cỡ những củ cải mùa đông. Phân nửa những thanh niên lắc thật mạnh mấy cái khung khi họ bước tới bằng chân phải, tạo ra những tạp âm lộn xộn mang âm hưởng đau thương buồn bã, trong khi phân nửa còn lại lắc cái khung khi họ bước tới trên chân trái, làm cho tiếng sắt chạm nhau và phát ra một âm vang tang tóc thê lương vọng lại trên những ngọn đồi.

Những thầy dòng này hỗ trợ thêm cho tiếng kêu của những cái chuông bằng tiếng khóc than và la hét của họ trong một trạng thái say mê xuất thần.

Ở phía sau của cái đám rước lố bịch này kéo lê một cái đuôi bao gồm những người sống ở Dras-Leona: quý tộc, thương gia, người buôn bán, nhiều sĩ quan quân đội cao cấp, và một tập hợp tạp nhạp của những kẻ nghèo hơn, như người lao động chân tay, kẻ ăn xin, và lính bộ binh tầm thường.

Eragon tự hỏi không biết thống đốc Dras-Leona, Marcus Tábor, có ở đâu đó giữa bọn họ không.

Dừng lại trước rìa của vách núi thẳng đứng đầy đá vụn bao quanh Helgrind, những thầy tư tế tập hợp quanh hai bên một tảng đá màu gỉ đồng có mặt trên bóng loáng. Khi cả hàng người đã đứng bất động trước cái bệ thờ thô thiển, sinh vật trên cáng xoay tròn và bắt đầu tụng kinh bằng một giọng cũng chói tai không kém tiếng rền rĩ của mấy cái chuông.

Bài ngâm nga của thầy tư tế không ngừng bị đứt quãng bởi những cơn gió mạnh, nhưng Eragon nắm bắt được đó là ngôn ngữ cổ, bị vặn vẹo và phát âm sai một cách kỳ cục – xen vào những từ ngữ của người Dwarf và Urgal, tất cả được họp lại bằng giọng phát âm cổ xưa kiểu giống Eragon. Những gì nó hiểu được làm nó rùng mình ghê tởm, vì bài thuyết giáo nói về những thứ ít được biết đến nhất, của một sự thù hằn hiểm ác đã mưng mủ qua nhiều thế kỷ sâu tận trong ngóc ngách trái tim con người trước khi bùng nổ thành sự biến mất của những Kỵ sĩ Rồng, của máu và sự điên cuồng, và của những nghi lễ kinh tởm được thực hiện dưới ánh trăng đen.

Vào cuối bài diễn thuyết suy đồi đó, hai thầy tư tế thấp hơn bước lên trước và nâng ông chủ - hay bà chủ cũng có thể - của họ lên khỏi cái kiệu và đặt lên mặt bệ thờ. Sau đó Thầy Tư Tế Tối Cao ra lệnh ngắn ngọn. Hai lưỡi thép chớp lên như ánh sao khi chúng đưa lên và rơi xuống. Một dòng suối máu tuôn ra từ mỗi vai của Thầy Tư Tế Tối Cao, tưới xuống cái thân hình đóng thùng trong lớp áo da, và chảy thành vũng lên tảng đá cho đến khi nó tràn xuống lớp sỏi bên dưới.

Hai thầy tư tế nữa nhảy đến trước để hứng lấy dòng máu vào trong những cái ly, sau khi đầy đến miệng, được phân phát giữa những thành viên của giáo đoàn, họ háo hức uống vào.

“Kinh!”, Roran nói nhỏ - “Chú đã không nói rõ cái bọn buôn thịt tươi, uống máu, đầu óc ngu độn và thờ cúng ngu xuẩn này là một bọn ăn thịt người.”

“Cũng không hẳn. Họ đâu có ăn cả thịt”

Khi tất cả những người tham gia đều đã uống, những thầy dòng mang Thầy Tư Tế Tối Cao trở lại cáng và quấn quanh vai của sinh vật đó với những dải băng trắng. Vải trắng nhanh chóng bị loang lổ máu.

Vết thương có vẻ chẳng có tác dụng gì lên Thầy Tư Tế Tối Cao, vì cái hình thù què quặt đó quay lại phía những người sùng đạo miệng còn dính máu và phát âm “Bây giờ các ngươi đã thật sự là Huynh đệ của ta, sau khi đã nếm dòng máu từ huyết quản của ta dưới bóng Helgrind toàn năng. Máu kêu gọi máu, và nếu Gia đình của ngươi cần giúp đỡ, hãy làm những gì ngươi có thể cho Nhà thờ và cho những người hiểu được quyền năng của Chúa tể Dread của chúng ta… Để xác nhận và xác nhận lần nữa lòng trung thành của chúng ta đối với chế độ Chuyên Chính Tam Hùng, lập lại theo ta Chín lời Thề … Trên danh nghĩa Gorm, Ilda, và Fell Angvara, chúng tôi thề sẽ tỏ lòng kính trọng ít nhất ba lần một tháng, vào lúc trước khi trời tối, và sau đó sẽ hiến thân mình để làm dịu cơn đói vĩnh cửu của Chúa Tể Vĩ đại và Khủng khiếp…

Chúng tôi thề sẽ nghe theo những lời dạy bảo được viết trong cuốn sách của Tosk… Chúng tôi thề sẽ luôn mang Bregnir trên người và mãi mãi kiêng khem 12 điều răn và sự tiếp xúc của những sợi thừng thắt nút, hãy để lụi tàn đi… ” (ND: khúc này hiểu được nó nói gì chít liền)

Một cơn gió đột ngột nổi lên cắt quãng đoạn còn lại của danh sách đang nêu ra bởi Thầy Tư Tế Tối Cao. Sau đó Eragon thấy những người lắng nghe lấy ra một con dao nhỏ cong, và từng người một, cắt trên chỗ khuỷu tay uốn cong của chính họ và nhỏ dòng máu của họ lên trên bệ thờ.

Ít phút sau, cơn gió giận dữ dịu đi và Eragon lại nghe tiếng tên thầy tư tế: “… và những thứ mà ngươi ham muốn và thèm khát sẽ được cấp cho ngươi như là phần thưởng cho sự tuân thủ… Nghi lễ của chúng ta kết thúc. Tuy nhiên, nếu kẻ nào trong số các ngươi đủ dũng cảm để bày tỏ lòng trung thành sâu sắc thật sự, hãy để họ bày tỏ!.”

Thính giả cứng người lại và chồm về phía trước, khuôn mặt của họ chăm chú mê mẩn, điều này, rõ rành rành, là cái mà họ đã chờ đợi.

Trong một khoảng khác dài, yên lặng, tưởng chừng họ sẽ bị thất vọng, nhưng sau đó một trong những thầy dòng bước ra khỏi hàng và la lên “Tôi sẽ làm!”. Với một tiếng gầm phấn khích, anh em của hắn bắt đầu khua chuông nhanh và dữ dội, kéo đoàn người vào một cơn điên cuồng, họ nhảy và la hét y như mất hết lý trí. Tiếng nhạc chói tai gợi lên một tia hào hứng trong trái tim Eragon, bất chấp sự chán ghét của nó đối với nghi lễ, đánh thức cái phần bản năng và tàn bạo của nó.

Lột chiếc áo choàng ra và chẳng mặc gì ngoài một cái khố da, gã thanh niên tóc đen lao mình lên đỉnh bệ thờ.

Những giọt máu đỏ như hồng ngọc phún ra từ hai bên bàn chân hắn. Hắn đối mặt với Helgrind và bắt đầu run rẩy quằn quại như thể bị đánh đến tê liệt, giữ nhịp với tiếng chuông sắt kêu chói tai. Đầu hắn quay chầm chậm trên cổ, bọt sùi ra bên mép, hai tay quẫy đập như những con rắn.

Mồ hôi túa ra trên những thớ thịt của hắn cho đến khi hắn bóng lên như một bức tượng đồng trong ánh sáng đang tắt dần.

Âm thanh của những cái chuông đã đạt tới một nhịp độ điên cuồng khi mà từng âm va lẫn vào nhau, lúc đó gã thanh niên đưa một tay ra phía sau. Một thầy tư tế đặt lên đó cán của một dụng cụ kỳ dị: một thứ vũ khí một mặt mài sắc, dài hai foot rưỡi, có chuôi, những rãnh nhỏ, một cái thanh chắn ngang đầu chuôi, một cái lưỡi rộng, phẳng mở rộng ra và hơi lõm xuống ở gần cuối, một hình thù mô phỏng cánh con rồng. Nó là dụng cụ được thiết kế chỉ cho một mục đích: để đâm xuyên qua áo giáp và xương hay gân dễ dàng như xuyên qua một túi da đựng nước căng phồng.

Gã thanh niên nâng cây vũ khí hướng về đỉnh cao nhất của Helgrind. Sau đó hắn quỳ xuống một chân, và với một tiếng la đứt quãng, chặt lưỡi dao xuống cổ tay phải của hắn.

Máu tưới lên tảng đá sau bệ thờ.

Eragon co rúm lại và đưa mắt đi chỗ khác, mặc dù nó không thể thoát được tiếng thét khủng khiếp của gã thanh niên. Nó chẳng là gì so với những thứ Eragon đã thấy trong những trận chiến, nhưng chuyện cắt xẻo chính mình một cách cố tình có vẻ sai lầm khi mà nó quá dễ dàng biến dạng trong cuộc sống hàng ngày.

Những ngọn cỏ cứa lạo xạo lên nhau khi Roran chuyển mình. Anh ta lầm bầm một câu nguyền rủa nghe không rõ trong bộ râu rậm, rồi lại im lặng.

Trong lúc một tăng lữ chữa trị cho vết thương của gã thanh niên – cầm máu bằng một câu bùa chú – một thầy dòng thả hai nô lệ khiêng kiệu của Thầy Tư Tế Tối Cao ra, chỉ để trói cổ chân họ vào một cái vòng sắt dính liền vào bệ thờ. Sau đó tên thầy dòng lột nhiều gói đồ từ dưới áo choàng của họ ra, chất lên mặt đất, ngoài tầm với của những nô lệ.

Buổi lễ đã kết thúc, những thầy tư tế và đoàn tùy tùng của họ rời Helgrind về lại Dras-Leona, rền rĩ và rung chuông suốt dọc đường đi. Tên cuồng tín lúc này còn có một tay đi tấp tểnh ngay trước Thầy Tư Tế Tối cao. Một nụ cười sung sướng nở rạng trên mặt hắn.

“Quái lạ”, Eragon nói, và giải phóng hơi thở bị kìm nén khi đoàn người đã biến mất sau một ngọn đồi phía xa.

“Cái gì quái lạ?”

“Em đã đi lại giữa cả người dwarf với người elf, và không có gì họ từng làm mà kỳ cục như điều mà mấy kẻ đó, những con người đó, đã làm.

“Chúng là quái vật giống bọn Ra’zac”, Roran hất cằm về phía Helgrind. “Bây giờ chú có thể tìm coi Katrina có ở đó không được chưa?”

“Em sẽ thử. Nhưng anh chuẩn bị chạy nhé”.

Nhắm mắt, Eragon chầm chậm mở rộng tư tưởng, dịch chuyển từ suy nghĩ của một sinh vật này đến một sinh vật khác, như những tia nước ngấm vào cát. Nó cảm giác được những thành phố lúc nhúc côn trùng đang lon ton băm bổ làm việc của chúng, những con thằn lằn và rắn giấu mình giữa những tảng đá ấm, nhiều loại chim chóc, và nhiều loài thú nhỏ. Côn trùng và thú nhỏ đều hối hả với những hoạt động chuẩn bị cho đêm sắp đến, bằng cách hoặc rút lui về tổ, hoặc trong trường hợp những loài ăn đêm, bằng cách ngáp dài và duỗi người, chuẩn bị sẵn sàng để săn và cướp phá.

Cũng như những giác quan khác của nó, khả năng chạm đến suy nghĩ kẻ khác của Eragon giảm dần theo khoảng cách.

Khi sự thăm dò tinh thần của nó đến được căn cứ Helgrind, nó chỉ còn có thể cảm thấy được những loài vật to nhất, ngay cả với chúng cũng rất mờ nhạt.

Nó tiếp tục một cách cẩn thận, sẵn sàng để rút lui ngay lập tức nếu nó gặp phải tinh thần của những kẻ họ đang săn đuổi: bọn Ra’zac và cha mẹ chúng, những con Lethrblaka khổng lồ.

Eragon dùng cách này chỉ vì không có tên Ra’zac con nào có thể dùng pháp thuật, và nó cũng không tin bọn chúng là những tinh thần sư – những kẻ không phải pháp sư được huấn luyện để chiến đấu bằng tư tưởng.

Bọn Ra’zac và Lethrblaka cũng không cần dùng những cách đó vì hơi thở của chúng không thôi đã làm tê liệt cả người to lớn nhất.

Và mặc dù Eragon phải mạo hiểm khám phá, nó, Roran, và Saphira phải biết rõ liệu bọn Ra’zac có cầm tù Katrina – vợ chưa cưới của Roran – trong Helgrind hay không, để xác định nhiệm vụ của họ là cứu thoát Katrina hay bắt giữ và thẩm vấn bọn Ra’zac.

Eragon tìm kiếm lâu và khó khăn. Khi nó thu hồi tư tưởng, Roran đang nhìn nó với vẻ mặt của một con sói đói. Đôi mắt xám của cậu ta bùng cháy ngọn lửa pha trộn giận dữ, hy vọng, và tuyệt vọng, có vẻ như cảm xúc của cậu ta có thể nổ bùng ra phía trước và thiêu đốt mọi thứ trong tầm mắt với một ngọn lửa có cường độ quá sức tưởng tượng, nung chảy cả những tảng đá cứng nhất.

Điều này thì Eragon thấu hiểu.

Cha của Katrina, tên hàng thịt Sloan, đã phản bội tố cáo Roran với bọn Roran. Khi bọn chúng thất bại trong chuyện bắt Roran, chúng tóm lấy Katrina từ trong phòng ngủ của Roran và mang nàng đi khỏi Thung lũng Palancar, bỏ lại những người dân Carvahall cho quân lính của Vua Galbatorix chém giết.

Không thể đuổi theo Katrina, Roran – chỉ vừa kịp lúc – thuyết phục dân làng bỏ nhà và theo cậu ta băng qua Spine, hướng về phía nam dọc theo bờ biển Alagaësia, nơi họ gia nhập với quân nổi loạn Varden. Những khó khăn mà họ phải chịu đựng nhiều vô kể và khủng khiếp.

Nhưng trái đất tròn, chuyến đi đó đã khiến Roran gặp lại Eragon, người biết vị trí hang ổ bọn Ra’zac và đã hứa với cậu ta sẽ giúp cứu Katrina.

Roran đã thành công chỉ bởi, như sau này cậu giải thích, vì sức mạnh của ý chí đã thúc đẩy cậu đến tột bực khiến kẻ khác sợ hãi tránh xa, và khiến kẻ thù bối rối.

Một sự nóng bỏng tương tự lúc này đang đè lên Eragon.

Nó có thể lao vào nguy hiểm mà không một chút lo lắng cho an toàn bản thân nếu ai đó nó quan tâm đến đang gặp nguy hiểm. Nó thương Roran như anh ruột, và vì Roran sẽ cưới Katrina, Eragon đã mở rộng định nghĩa về gia đình của nó bao gồm cả cô nữa. Khái niệm này có vẻ càng quan trọng hơn vì Eragon và Roran là dòng dõi cuối cùng của dòng tộc. Eragon đã từ bỏ mọi liên hệ với anh ruột, Murtagh, nên họ hàng duy nhất nó và Roran còn lại chính là hai đứa, và bây giờ thêm Katrina.

Tình anh em cao quý không phải là sức mạnh duy nhất thúc đẩy hai người. Có một mục đích khác nữa chiếm hữu họ: trả thù. Ngay cả khi họ tính kế cứu Katrina khỏi bàn tay của bọn Ra’zac, hai chiến binh – người thường và Kỵ sĩ Rồng – tìm cách tiêu diệt bọn tay sai của Vua Galbatorix, vì chúng đã tra tấn và giết Garrow, cha của Roran và cũng giống như cha của Eragon.

Tin tức tình báo mà Eragon thu thập được rất quan trọng cho cả nó lẫn Roran.

“Em nghĩ em cảm thấy chị ấy”, nó nói. “Cũng khó chắc, vì chúng ta ở xa Helgrind quá và em thì chưa bao giờ thử xâm nhập tư tưởng của chị ấy trước đây, nhưng em nghĩ chị ấy đang ở trong khu đền thờ đó, bị giấu ở nơi nào đó gần chỗ cao nhất.”

“Cô ấy có bệnh không? Có bị thương không? Nói đi, Eragon, đừng giấu anh: bọn chúng có làm tổn thương cô ấy không?”

“Hiện giờ thì chị ấy không bị đau. Hơn thế nữa thì em không thể nói được, vì tất cả sức mạnh của em bị dùng hết chỉ để thấy được một tia tinh thần của chị ấy; em đã không thể nói chuyện với chị”. Tuy nhiên, Eragon tránh không đề cập tới, rằng nó đã phát hiện một người thứ hai, mà nó nghi ngờ là một kẻ, nếu đúng là hắn, làm nó thấy phiền phức khủng khiếp.

“Cái mà em không tìm ra là bọn Ra’zac hay bọn Lethrblaka. Ngay cả nếu em bỏ qua bọn Ra’zac, cha mẹ của bọn chúng vẫn khá lớn, nên sinh lực của bọn chúng lẽ ra phải tỏa sáng như một ngàn cái đèn lồng, như kiểu Saphira ấy. Bên cạnh Katrina và vài đốm sáng lờ mờ nữa, Helgrind tối đen, đen thui.”

Roran quắc mắt giận dữ, nắm chặt tay trái, và liếc nhìn dãy núi đá đang mờ dần vào bóng tối khi những cái bóng màu tím bao bọc lấy nó. Với một giọng nhỏ, vô cảm, như thể đang nói với chính mình, cậu ta nói: “Cũng không quan trọng chuyện em đúng hay sai”.

“Vì sao?”

“Chúng ta không dám tấn công tối nay; ban đêm là thời điểm bọn Ra’zac mạnh nhất, và nếu bọn chúng đang ở gần, sẽ rất ngu xuẩn để đánh nhau với chúng khi chúng ta đang bị bất lợi. Đồng ý chứ?”

“Vâng”

“Vậy, chúng ta đợi trời sáng”. Roran phác một cử chỉ về phía những nô lệ bị trói vào bệ thờ đẫm máu. “Nếu những người bất hạnh kia biến mất lúc đó, chúng ta biết là Ra’zac đang ở đây, và tiến hành như kế hoạch. Nếu không, chúng ta nguyền rủa sự xui xẻo đã để chúng chạy thoát, thả những nô lệ, cứu Katrina, và bay về Varden cùng với cô ấy trước khi Murtagh săn đuổi chúng ta. Cả hai trường hợp, anh sợ là bọn Ra’zac sẽ không để Katrina ngoài sự chú ý của chúng quá lâu, dĩ nhiên nếu Galbatorix muốn cô ấy còn sống để hắn có thể dùng cô ấy làm công cụ chống lại anh.

Eragon gật đầu. Nó muốn thả những người nô lệ bây giờ, nhưng làm vậy sẽ cảnh báo cho những kẻ nó đang săn đuổi. Thêm nữa, nếu bọn Ra’zac đến dùng bữa, nó và Saphira cũng không can thiệp được trước khi những nô lệ bị mang đi. Một cuộc chiến công khai giữa rồng và những sinh vật như Lethrblaka sẽ thu hút sự chú ý của mọi người đàn ông, phụ nữ và trẻ em chung quanh. Và Eragon không nghĩ nó, Saphira, hay Roran có thể sống sót nếu Galbatorix biết họ đang cô độc trong vương quốc của hắn.

Nó không nhìn về phía những người đang bị xích nữa. Vì lợi ích của họ, ta mong bọn Ra’zac đang ở phía bên kia của Alagaësia hay ít nhất chúng không đói bụng tối nay.

Với sự thỏa thuận ngầm, Eragon và Roran bò trở xuống từ mỏm đồi thấp mà họ đã trốn sau đó. Cuối chân đồi, họ nhỏm lên nửa người, và quay mình, vẫn gập người, chạy giữa hai ngọn đồi. Chỗ lõm thấp dần dần bị xói mòn thành một rãnh hẹp với những phiến đá vụn.

Né tránh những cây juniper xương xẩu rải rác trên rãnh, Eragon nhìn lên và, qua những cụm lá kim, nhìn thấy chòm sao đầu tiên tô điểm bầu trời tối sẫm như nhung. Chúng có vẻ lạnh và sắc, như những mảnh băng vỡ. Rồi nó tập trung vào những bước chân trong khi nó và Roran chạy về phía nam chỗ họ cắm trại.

Những ngày mưa

Đôi khi gặp
Nhìn bạn mỉm cười và tỏ ra hạnh phúc
Ta vẫn thường tự hỏi có hay không một nỗi buồn lẩn khuất
Sau những vô tư thỏa mãn bây giờ

Ừ thì cũng chỉ là cái gì đó xa xưa
Có thể bạn đã bước qua rồi và thanh thản
Như lá trút hết một mùa thu và những thì thầm xao xác
Để đón mùa xuân xanh mới trong đời

Ta ngồi nghe mưa rơi và nhìn bạn mỉm cười
Thấy mình khắc khoải mong nụ cười đó mãi mãi là sự thật
Mong bạn sẽ không bao giờ còn nao nao thấy mình đánh mất
Những điều có khi chưa tồn tại bao giờ

Tương lai luôn là một chuỗi những bất ngờ
Ta nhìn bạn bên một người và tự hỏi sẽ ra sao nếu bên bạn bây giờ là người khác
Có lẽ mãi mãi ta sẽ không bao giờ biết
Bạn có bao giờ tự hỏi sẽ ra sao nếu không có tất cả những bão giông ngày ấy trong đời

Dù sao thì bây giờ bạn đã mỉm cười
Và khi ngồi nhìn bạn và nghe mưa đổ trùng khơi
ta không còn lo là bạn sẽ quăng bỏ tất cả rồi bật khóc
Bạn đã có những ngày khó nhọc
Đủ để thấy hạnh phúc bao gồm cả hai chữ bình yên

Đủ để ta cám ơn một người con gái trước đây ta không quen
Đã cố nắm chặt tay và dắt bạn ra khỏi mùa giông bão
Đủ để ta cầu chúc với tất cả trái tim
cho tất cả những gì không phải là hư ảo
Sẽ không bao giờ lại nghiêng ngả chênh vênh

Đời sẽ vẫn còn dài với những được và mất và lãng quên
Qua những bước thăng trầm đôi khi ta sẽ lại quay về và gặp
Chỉ mong mãi mãi thấy bên bạn là nắng ấm
Để thấy an lòng rằng đâu đó trong sâu thẳm
cuối cùng bạn đã xóa nhòa ký ức những ngày mưa.

Lạnh

Sáng bước ra đường, trời đã lạnh. Co ro cúm rúm.

Chưa thấy lá vàng. Hai hàng cây ngân hạnh mới chớm chớm đổi màu. Vậy mà trời đã lạnh, như đầu mùa đông.

Bây giờ là cuối tháng mười. Giấc này, hồi mình ở trường Kyunghee là trời đã đổ tuyết. Tuyết cuối tháng mười bay mông lung, vừa chạm đất là tan, như một bức màn trắng dịu mỏng tanh trời phủ xuống báo mùa đông sang.

Chưa thấy lá vàng, chỉ thấy lá khô rụng xuống. Mùa thu năm nay đi đâu rồi? Coi chừng mùa đông tới, mà vẫn chưa thấy dấu thu.

Bên đường đi làm, có một hàng ngân hạnh bị người ta đào gốc lên mang đi. Mấy cây ngân hạnh lá vẫn còn xanh. Tội nghiệp tụi nó không kịp vàng cho mùa năm nay.

Bạn gái

Giờ nhớ lại, lúc nhỏ mình rất ít bạn. Hồi ba bốn tuổi hầu như không có bạn bè trong xóm, vì cả ngày trốn trong nhà chơi với bé Lùn. Bạn thân nhất của mình hồi đó là bé Lùn. Không phải vì mình không thích ra đường, hoặc không thích có bạn. Cũng chả hiểu sao, những trò chơi của tụi nhóc trong xóm làm mình rất khoái, vd như cái trò lấy xác dừa rang khô trộn với phẩm màu, rồi bán hàng cho nhau lấy giây thun. Rồi trò đổ bánh thọt đồ chơi. Trò làm bánh phục linh... Con nít xóm mình chơi trò gì cũng theo phong trào. Mình không quen biết mấy đứa nhỏ trong xóm, mà cũng không biết bắt chuyện với tụi nó thế nào. Hồi nhỏ, kỹ năng communication của mình là zero.

Năm tuổi, đi học, có những đứa bạn đầu tiên. Bây giờ còn nhớ, chắc là trong đám con nít lớp mẫu giáo hồi đó, mình là một đứa khá kỳ quặc. VD như trong khi tụi con nít phần lớn chỉ nhớ được truyện ba chú heo con hoặc bạch tuyết, thì mình đọc truyện Sherlock Homes, truyện kiếm hiệp, truyện Tom Sawyer, và biết rất rõ trên vũ trụ có các hành tinh, trái đất thì hình tròn và quay quanh mặt trời... Đống sách của cậu mua hồi đó biến mình thành một bà cụ non từ hồi 4 tuổi.

Chắc là do có ít bạn, đặc biệt là ít bạn thân, nên mình nhớ rõ từng đứa một, từng chuyện một. Từ AT, nhỏ bạn hồi mẫu giáo hay đi chung với mình xuống lớp bé Lùn (bé Lùn cũng học mẫu giáo trường đó, lớp mầm, mình cứ giờ ra chơi là chạy xuống ngó vô lớp nó). HĐ, nhỏ bạn hồi cấp 1 hay rủ mình đi nghe đàn piano trong giờ ra chơi. Lớp 3 và lớp 4, mình đi học về chung với 2 nhỏ bạn cùng tên T...

Mình là một đứa không biết giao tiếp, đến giờ vẫn thế. Mình khó nhớ mặt người, tên người. Mình khó bắt chuyện. Mình khó nhe răng cười nếu không phải thật lòng. Mình khó tin tưởng người khác. Khó cả ăn nói bình thường. Hồi nhỏ, mình cứ mở miệng ra là hay cà lăm, và rất ít khi nói chuyện. Mình hay đểnh đoảng và gây toàn những sai lầm mắc dịch.

Những người bạn, mỗi người làm thay đổi mình đi một chút. Năm cấp 3, mình học được sự thân thiết và tin tưởng lẫn nhau từ V. Học được từ N rằng khi một đứa bạn ăn nói bỗ bã với mình, và nói bậy như điên, thì nó vẫn có thể là người bạn rất tốt. Học được từ H cảm giác vui thích khi chia sẻ cái mình có cho người khác. Cũng là từ H, học được cách nói ra cảm xúc và suy nghĩ của mình. 3 năm cấp 3, mình bỏ dần cái vỏ cứng ngắc khô queo, từ từ biết cách sống sao cho tình cảm và cởi mở hơn, ít nhất là đối với những người bạn thân.

Đại học. Lần đầu tiên có những người bạn nói cho mình biết những suy nghĩ của mình là điên rồ, ngây thơ và ngốc nghếch. Có những người làm cho mình biết mỗi người đều có những mặt xấu và tốt. Có gắn bó, có giận hờn, có vui vẻ, có buồn bã. TA dạy cho mình phải làm sao để đừng gây nhàm chán cho người khác (và nó là ví dụ tiêu biểu: lúc nào cũng làm mình thấy thú vị). H làm cho mình nể phục bởi sự hiền lành chịu khó, và lúc nào cũng cố gắng vượt lên trên khả năng, cả sự can đảm và mạnh mẽ mình không có được. Y thì làm mình nể phục bởi tài năng và tính cách, cả vì sự thẳng thắn và cách sống rất thật.

Cũng là một thiếu sót to đùng nếu không nói đến ông xã. Quen nhau từ năm lớp 8. Đi học chung suốt mấy năm. Ông xã luôn là đứa mạnh hơn : trong khi mình hay nằm mơ thấy mình bị dí chạy khắp nơi, và tỉnh dậy toát hết mồ hôi vì sợ, thì ông xã cũng nằm mơ thấy bị dí, nhưng tới lúc cùng đường thì quay lại bem cho cái đứa dí theo tơi tả. Đi chung với nhau, lúc nào cũng là ông xã ra lệnh, và mình ngoan ngoãn nghe lời, vì mình thấy đúng.

Ông xã có nhiều bạn. Dĩ nhiên mình vẫn là đứa thân nhất, nhưng không phải lúc nào cũng đi chung với nhau. Thỉnh thoảng, thấy ông xã hay đi chung với một nhỏ bạn khác. Bao giờ cũng giới thiệu mình. Có nhỏ dễ thương, có nhỏ hiền lành, cũng có nhỏ điệu đà quá đáng. Có người làm mình cảm thấy như họ hơi lợi dụng ông xã vì tính ông xã khá rộng rãi trong chi tiêu. Có người đến rồi đi, có người ở lại khá lâu. Mình vẫn là đứa bạn gái lâu nhất.

Rồi đi làm parttime. Rồi đi làm fulltime. Mỗi người bạn mới lại góp phần làm thay đổi một góc của mình. Như những câu mà VA đã khuyên và mình cứ gặp problem là hay lấy ra để suy ngẫm. Như PP làm mình thích hoa và nhạc rock. KC lúc nào cũng làm mình cảm động.

Những người bạn. Không biết họ có nhận thấy những phần mà họ đã để lại trong mình. Như M, khi gặp lại có bao giờ nhìn tai mình và nhớ ra chính M đã làm cho mình đeo bông tai. Hay như bé H có nhớ chính nó đã làm mình biết ăn dưa leo và uống sữa tươi không đường... Cả về bản thân, tính tình, suy nghĩ, sở thích, thói quen, ... Nhiều khi mình tự hỏi, nếu không có tất cả những người bạn đó, thì bây giờ mình sẽ ra làm sao.

Có lẽ, một góc nào đó vẫn không thay đổi. Mình vẫn là con nhóc không biết communicate hồi xưa, và vẫn không biết mở miệng ra thế nào để nói một câu tử tế. Cũng không biết cách giữ liên lạc cho tốt. Cho nên, sẽ có rất nhiều người bạn không bao giờ nhận được lời cảm ơn của mình về những gì họ đã để lại cho mình. Nhưng chắc một điều, mình sẽ không bao giờ quên ai hết. Vì cứ thỉnh thoảng mình lại bắt gặp, trong một góc nào đó của mình, có dấu vết của một người bạn.

Điều quan trọng

Về nhà.

Đi thăm cậu.

Cậu già đi nhiều, gầy đi nhiều.

Hai mươi mấy năm trước, hai đứa thường ngồi trên giường cậu những đêm bị cúp điện, vòi cậu làm bóng bàn tay trên tường thành hình con bướm, con chó, con thỏ... Hoặc cậu kê cái ghế bố ra sân, cậu nằm nhìn trời, kể cho hai đứa nghe sự tích mấy chòm sao. Hoặc lân la chơi với mấy món linh kiện điện tử bé xíu của cậu, mang đám dây đồng vàng chóe với mấy cái đèn led ra làm nhẫn đeo tay. Hoặc cậu sẽ đưa tiền cho chạy đi mua mấy cái bánh tráng sữa mỏng lét về nướng, có khi là bánh cốm, có khi là bánh bía. Hồi đó, cậu gọi con dzịt là con ngỗng (hehe, cũng cùng họ). Con ngỗng thích ăn vỏ bánh bía, nên thường nó lột gần sạch cái vỏ bánh, cậu ăn nhân.

Cả một thời trẻ con gắn với cậu, cho đến khi cậu dẫn mợ về nhà, rồi lập gia đình và ra riêng.

Lấy vợ có con rồi, cậu vẫn thương hai đứa. Cái thời nghèo khó, tiền ăn kem cũng không có, nhưng có cả một cặp sách đầy truyện tranh xịn cậu mua cho. Có cái điện thoại đồ chơi, có dây điện nối đàng hoàng, đầu này nói đầu kia nghe được. Cái đồng hồ cậu mua cho, nó đeo gần 10 năm trời đến khi hư không sửa được nữa thì mang cất vào hộp, giờ vẫn còn giữ. Có một lần, tự nhiên đọc trên báo thấy người ta chỉ làm máy chiếu phim bằng thấu kính lúp, bèn hỏi xin cậu một cái, cậu mang cho cái kính lúp xịn tới nỗi không dám mang ra làm máy chiếu. Lần khác, hỏi cậu cách làm đèn kéo quân (cậu hồi nhỏ nổi tiếng trong xóm về đèn kéo quân), cậu lúc đó đã hơn bốn mươi ngồi cặm cụi làm cho nó một cái đèn.

Rồi đi xa. Rồi nghe cậu bệnh. Nghe giọng nói tuyệt vọng của cậu qua điện thoại. Buồn và thắc thỏm lo sợ.

Về nhà, nghe mẹ nói tình hình cũng khả quan. Đi thăm cậu, cậu nhìn hốc hác và trầm ngâm hơn xưa.

Vẫn không biết nói gì để động viên hay tỏ ra quan tâm an ủi cậu. Chỉ mang mấy chuyện riêng ra kể, để cậu khuyên.

Dzịt đang loay hoay với câu hỏi, có nên về VN không. Về thì được ở gần gia đình, nhưng tiền kiếm được sẽ ít đi nhiều. Còn có nhiều bạn bè đang tìm cơ hội đi định cư ở Úc, ở Canada. Ở những nước đó, tương lai chắc yên ổn hơn, hoành tráng hơn (đi chăn kanguroo mà được trợ cấp xã hội lúc về già thì cũng đỡ).

Cậu hỏi, vậy cái gì là quan trọng nhất? Tiền bạc, hay gia đình?

"Nhưng gia đình con cần tiền..."

"Cần thì bao nhiêu cho đủ. Có ít thì sẽ xài ít, có nhiều thì sẽ xài nhiều. Bây giờ nếu mày về VN, làm lương ít đi, thì cũng sẽ xoay sở được thôi."

"Nhưng mà ..."

"Ừ thì tùy mày thôi. Chỉ cần xác định coi cái gì là quan trọng. Sống đến một lúc nào đó, sẽ thấy tiền bạc cũng không phải là thứ cốt yếu nhất."

Chính mình cũng thấy cậu nói đúng. Nhưng không hiểu sao, vẫn không dứt ra được khỏi cái vòng tiền bạc.

Tiền, có phải mình bị ám ảnh bởi nó nhiều quá không?

Cái thời bé tí, niềm vui lớn nhất là đi học nhận được phần thưởng. Không phải vì danh dự, mà là vì giá trị của phần thưởng. Được thưởng càng nhiều, mẹ càng đỡ lo cho năm học mới.

Cái thời mà mình hầu như tách biệt hẳn với những đứa bạn khác, vì không đi học thêm, không đóng tiền ăn trưa để ăn chung với mọi người, luôn tìm mọi cách để được miễn giảm học phí.

Cái thời cặm cụi làm thêm, bất cứ việc gì để kiếm từng đồng cắc.

Cái thời chọn trường dựa theo học bổng.

Cái thời đi làm, chọn công ty dựa theo lương.

Cho tới bây giờ, mục đích của mình vẫn là tiền. Và nó vẫn đang giúp mình giải quyết khá nhiều thứ trong cuộc sống.

Hồi xưa, có một lần, từng ao ước giá như mình trúng số. Con dzịt không mua vé số bao giờ, nó không may mắn. Nhưng lần đó, cứ nghĩ phải chi mình có 10000$ trong tay, thì sẽ giải quyết được một chuyện quan trọng.

Nhưng dĩ nhiên, dzịt không trúng số. Nó chưa bao giờ tin vào phép màu, để có thể đi mua một tờ vé số. Và cậu không bao giờ có thể nhìn rõ như hồi xưa.

Cái thời chỉ cần có 500 đồng ăn kem là đủ để nó vui sướng đó, nó đã từng buồn khổ vì không có 10000$.

Và bây giờ, mọi thứ vẫn còn đang lơ lửng. Nhiều khi nó muốn về nhà, và nghĩ là mình chẳng cần gì nhiều, chỉ cần ở gần gia đình là vui. Nhiều khi lại điên đầu với một vụ lộn xộn gì đó, lại mong mình có thật nhiều tiền để giải quyết được mọi thứ. Nhiều khi quen với sự sung sướng nhàn tản, và sợ hãi mọi cái bấp bênh xáo trộn. Nhiều khi lại thấy mình hèn nhát và mất phương hướng. Nhiều khi thấy mình không đủ sức để làm gì hết.

Điều gì là quan trọng nhất trong đời? Ba mẹ? anh em? Bản thân? Người iu? Vợ chồng? Con cái? Sự nghiệp? Sự bình yên? Sự an toàn? Thành công? Thử thách? Tự do tự tại? Phấn đấu? ...

Không biết đến bao giờ, mình có thể đi thăm cậu và nói với cậu, con đã biết được đối với con, thứ gì là quan trọng.

Ngày mai trời lại sáng

(viết riêng cho LA, chắc là LA đọc được hỉ)

Chắc phải sorry LA vì đã xóa cái post trước có kèm cả comment của LA. Nhưng mà comment của LA cũng đã có tác dụng hết sức tốt phải không, nhờ nó mà KA có đủ vui vẻ để xóa cái post than thở nhảm nhí đó.

Thật sự, từ lâu KA không muốn than thở trong blog nữa. Vì càng ngày càng có nhiều cái không biết phải gọi tên nó thế nào. Với lại, như LA nói, có nhiều điều nói ra sẽ làm mất vui.

Bây giờ, trong một lúc cảm thấy tinh thần xuống thấp nhất, thì lại nhận được sự an ủi. Thiệt ngộ là an ủi rất chính xác với hoàn cảnh, mà lại từ một người bạn mà KA chưa từng kể lể tâm sự gì. Không biết nói gì hơn là thấy ấm áp.

Thích câu này của LA "Ngày mai trời lại sáng". Có lẽ, dạo này KA đã mất hy vọng, không còn nghĩ là trời sẽ lại sáng nữa. Nhưng trên sự thật, thì ngày mai sẽ là một ngày mới.

Uh, có thể, trong cuộc sống bao giờ cũng có thể có một vài chuyện làm mình khó chịu. Nhưng cuộc sống nói chung vẫn rất tốt mà đúng hông :D

Lại nhớ cái vẻ lúc nào cũng iu đời của LA hồi xưa. Hồi đó, KA đã ước mình cũng được như thế.

Hoa ngày xưa

(viết cho bạn tui)

Có một cây đàn cũ ngân nga đâu đó trong đời
Khúc nhạc về người con gái mỏng manh như đóa hoa loa kèn màu tím
Thời gian trôi thành từng dòng biền biệt
Những nốt thăng trầm cứ nối tiếp đi qua

Người con gái ngày xưa mang đến một bài ca
Đánh thức cuộc sống nơi khu vườn rất lặng
Có gió và mây, có mưa và nắng
Một mùa thay đổi tất cả mùa

Đóa hoa loa kèn vẫn tím như xưa
Có lẽ chỉ có đời đã khác
Hoặc có lẽ hương hoa đã chừng phai nhạt
Kiêu hãnh giấu tàn phai sau sắc tím tội tình

Những bướm những ong ngày trước rập rình
Và những tiếng vĩ cầm của mùa trăng cũ
Con dế mang đàn đi biệt nơi đâu
Còn lại trăng xanh và góc vườn rêu phủ

Còn những dư âm tím màu quá khứ
Níu kéo dịu dàng thi vị của ngày xưa
Còn một bài ca cho đóa hoa trong nỗi nhớ
Có hay không hạnh phúc đợi chờ?

Thơ về hạnh phúc

Có nhiều khi dễ dàng làm được những bài thơ về khổ đau
Nhưng lại rất khó để làm thơ về hạnh phúc
Đôi lúc em tự hỏi hạnh phúc với khổ đau, điều nào có thật
Điều nào là khái niệm mơ hồ

Cái con bé dại khờ của một thời xưa
Cứ tưởng nỗi buồn cũng đặc đen như những đêm trằn trọc
Trải qua bao nhiêu mùa biến động
Mới biết những khi mất ngủ cũng có thể thấy êm đềm

Chẳng biết tự bao giờ anh giúp em tìm ra em
Tìm ra cả những nụ cười rất thật
Cả một thời hồn nhiên ngày xưa em để mất
Giờ sống lại quanh em rạng rỡ từng ngày

Khi mình đi trên đường và nắm chặt tay
Em tự hỏi bây giờ mình còn cần gì hơn nữa
Con đường mùa thu ngập tràn lá gió
Như ngày xưa ắt hẳn sẽ buồn

Bây giờ ngay cả một ngọn lá bình thường
Dường như cũng khe khẽ cười lấp lánh
Chiếc ô ngày mưa và chiếc ô ngày nắng
Tất thảy đều che chở như nhau

Thật kỳ lạ khi những điều mang đến hạnh phúc cũng có thể mang đến khổ đau
Chỉ đơn giản là một số người dễ cười còn một số thì dễ khóc
Những ký ức bao giờ cũng có hai mặt đen và trắng
Mỗi người chọn một góc nhìn

Có lẽ em cũng đã rất thường tình
Dễ rơi vào những hố sâu của buồn nản và thất vọng
Cho đến một ngày có người cố gắng làm em bực dọc
Chợt nhận ra hạnh phúc biết bao khi có anh gìn giữ những nụ cười

Hạnh phúc có khi là một mặt trời
Cố nhìn thẳng và em không thấy gì nữa hết
Nhưng chỉ cần nhắm mắt lại là em sẽ biết
Ấm áp này tự ở đâu ra

Cá con, bánh bao và bánh khọt

Sid lùn mua một con cá. Hehe, làm mình nhớ mấy con cá của bé Hạnh hồi xưa.

Nó mua cá mà hông chịu mang về nuôi, lại để ở nhà mình. Chắc thấy thương tình 3 anh chị không có lấy một tí gì trong nhà gọi là phong thủy. Tội nghiệp con cá, mình đi làm cả ngày, sáng trước khi đi cho nó mấy hột thức ăn (có dám cho ăn nhiều đâu, lỡ nó phình bụng die luôn thì khổ), tối về nhiều khi lo chơi bời nấu nướng quên mất con cá. Kiểu này, cuối tuần Sid xuống, có khi thấy cá đổi màu.

Mai mốt mình mà có nhà, cũng sẽ làm cái hồ nhỏ nuôi cá. Hồ phải là hồ xi măng, cá thì là cá chép hoặc tai tượng, hé hé. Lỡ quên cho nó ăn mà nó có die thì mang chiên luôn, thế là đẹp.

***

Hôm CN làm bánh bao. Giao cho gấu mèo nhồi bột, gấu hỏi tính làm mấy cái bánh. Ba đứa, 6 cái chắc là vừa. Gấu bảo thế này thì ít bột quá, thêm một ít đi. Nhồi xong để đó cho nó lên men, hai đứa lon ton chạy đi mua vỉ hấp bánh. Quay về nhà thì ...ặc ặc, cục bột phồng lên to gấp mấy lần. Hehe, tại em chưa có kinh nghiệm.

Kết quả thay vì 6 cái bánh bao 2 trứng cút thì thezoo có khoảng 12 cái bánh bao 1 trứng cút. Ăn thử thấy nó cũng ngon ngon, trừ chuyện cái lạp xưởng Trung Quốc nó chả giống lạp xưởng tí nào (vịt vừa ăn vừa lầm bầm chửi ba cái đồ TQ, hé hé). Lẽ ra mỗi thằng chỉ ăn 4 cái, nhưng bạn Phi không ăn bánh bao (chắc tại thấy nó có khả năng bị bỏ độc). Thế là gấu với vịt xử lý lai rai đến tận sáng nay mới hết. Mà cũng ngộ, càng để lâu, hấp lại càng nhiều lần càng thấy nó ngon. Tự hỏi hông biết cái bánh bao mình ăn ở VN họ để bao lâu mà ngon thế.

Nhớ hồi xưa mẹ làm bánh bao, còn mình thì hăm hở nhồi bột. Hai mươi mấy năm ở nhà, chả bao giờ làm được món gì ra hồn, vì món gì mẹ cũng làm cả. Nhưng đi xa, muốn làm món gì cũng làm được tàm tạm, vì ở nhà cũng hay góp một tay phụ bếp. Bây giờ, lúc nấu ăn có gấu ngồi phụ nhồi bột, đi mua đồ có gấu đi chung, tự nhiên thấy hạnh phúc là hồi xưa đã không bỏ mẹ làm một mình.
***

Bánh khọt thì là một buổi chiều mưa. Gấu với anh Thành ngồi ăn bánh và uống bia. Vịt đổ bánh và góp phần phá mồi. Mưa lay phay, cái nhà nhỏ mát rượi và dễ chịu kỳ lạ.

Một lúc nào đó, khi thời gian đã qua rồi, khi mình đã chuyển đi nơi khác, mỗi lần nhớ lại cái nhà nhỏ mình đang ở bây giờ, có thể gọi nó là hạnh phúc. Đó là nơi mình khám phá ra, hạnh phúc chả là cái gì to lớn hết. Chỉ đơn giản là nấu ăn cho ai đó, nói chuyện linh tinh nhảm nhí, và nhìn thấy những khuôn mặt mỉm cười.

Một lúc nào đó, chắc phải cảm ơn những người đã làm cho mình hiểu là chỉ cần nhìn thấy những khuôn mặt mỉm cười (mà phải cười thiệt lòng kìa), là đủ sung sướng rồi.